Trả lời: Hiện thực lịch sử là tất cả những gì đã diễn ra trong quá khứ. Hiện thực lịch sử tồn tại hoàn toàn khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chỉ có thể hiểu, nhận thức và trình bày, tái hiện lịch sử theo những cách khác nhau chứ không thể thay đổi hiện thực lịch sử.
Ví dụ: Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước hàng vạn quần chúng nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
=> Phân tích: Ở ví dụ này ta có thể thấy sự kiện này được diễn ra trong quá khứ và đây hoàn toàn là sự thật. Ta không thể thay đổi được sự thật này. Ví dụ này chính là hiện thực lịch sử
– Nhận thức lịch sử là những hiểu biết của con người về hiện thực lịch sử, được trình bày, tái hiện theo những cách khác nhau: kể chuyện, ghi chép, nghiên cứu, trình bày,…
Ví dụ: Về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, đa số quan điểm cho rằng đây là kết quả của sự chuẩn bị lâu dài và lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Bên cạnh đó, cũng có thể có những quan điểm, nhận thức cho rằng đó chỉ là sự “ăn may”.
=> Phân tích: Ở ví dụ này ta có thể thấy được nhiều quan điểm khác nhau về cùng một sự kiện lịch sử. Họ có thể có những cái nhìn và cách hiểu khác nhau về sự kiện lịch sử này. Đây chính là ví dụ về nhận thức lịch sử
Xem thêm: Soạn Sử 10 Bài 1: Hiện thực lịch sử và nhận thức lịch sử cánh diều
Lịch sử hay sử học là một môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến con người. Đây là thuật ngữ chung có liên quan đến các sự kiện trong quá khứ cũng như những ghi nhớ, phát hiện, thu thập, tổ chức, trình bày, giải thích và thông tin về những sự kiện này. Những học giả viết về lịch sử được gọi là nhà sử học. Các sự kiện xảy ra trước khi được ghi chép lại được coi là thời tiền sử.
Lịch sử có thể tham khảo những môn học trừu tượng, trong đó sử dụng câu chuyện để kiểm tra và phân tích chuỗi các sự kiện trong quá khứ, và khách quan xác định các mô hình nhân quả đã ảnh hưởng đến các sự kiện trên. Các nhà sử học đôi khi tranh luận về bản chất của lịch sử và tính hữu dụng của nó bằng cách thảo luận nghiên cứu về chính lịch sử như một cách để cung cấp “tầm nhìn” về những vấn đề của hiện nay.
Các câu chuyện phổ biến của nền văn hóa nhất định, nhưng không được các nguồn thông tin khách quan khẳng định (ví dụ như những truyền thuyết về vua Arthur trong văn hóa phương Tây hay Lạc Long Quân và Âu Cơ trong văn hóa Việt) thường được phân loại là di sản văn hoá hay truyền thuyết, bởi những câu chuyện này không hỗ trợ việc “điều tra khách quan”, vốn là một yêu cầu khắt khe của bộ môn sử học.
Herodotus, một nhà sử học Hy Lạp ở thế kỷ thứ 5 TCN được coi là “cha đẻ của lịch sử phương Tây” cùng với một nhà sử học cùng thời là Thucydides đã góp phần tạo nên nền tảng cho việc nghiên cứu hiện đại của lịch sử nhân loại. Các tác phẩm của họ vẫn còn được giữ cho đến tận ngày nay. Sự khác biệt giữa cách tiếp cận lịch sử tập trung vào văn hóa của Herodotus và cách tiếp cận lịch sử tập trung vào quân sự của Thucydides vẫn còn gây tranh cãi giữa các nhà sử học khi họ viết lịch sử của thời hiện đại. Ở các nước phương Đông, cuốn sử đầu tiên Kinh Xuân Thu là biên niên sử nổi tiếng được biên dịch từ năm 722 TCN mặc dù chỉ còn bản in ở thế kỷ thứ 2 TCN còn truyền lại đến nay.
Ảnh hưởng từ thời cổ đại đã giúp tạo ra hàng loạt các quan niệm về bản chất của lịch sử. Các quan niệm này đã phát triển qua nhiều thế kỷ và tiếp tục thay đổi cho đến ngày hôm nay. Nghiên cứu hiện đại về lịch sử có phạm vi rộng, nó bao gồm việc nghiên cứu các mảng cụ thể và nghiên cứu một số yếu tố mang tính tức thời tại chỗ hoặc theo các chủ đề điều tra lịch sử. Thường lịch sử được giảng dạy như một phần của giáo dục tiểu học và trung học, và nghiên cứu khoa học lịch sử là một môn học chính trong các khoa nghiên cứu của trường đại học.
Nhận thức lịch sử “Lịch sử được nhận thức bởi hậu thế” không thể thoát khỏi sự nghi nghờ về tính khách quan. Cho dù là việc cấu trúc lịch sử từ những thông tin có tính vụn vặt (mảnh vỡ) có được từ việc phân tích các di tích phát quật khảo cổ học đi nữa thì do quá trình tuyển chọn, thu nhặt việc đưa vào quan điểm chủ quan là không thể phủ định và kết quả là việc giải thích nó sẽ có khi bao gồm cả mong muốn nữa.
Cả “ghi chép lịch sử” cũng không có khả năng ghi chép toàn bộ khuôn mặt nó chịu sự chi phối của tri thức, giá trị quan, bối cảnh thời đại, lực lượng của người chấp bút và nó trở thành hiện tượng được ghi chép qua bộ lọc và bóp méo sự thật. Edward Hallett Carr trong tác phẩm “ Lịch sử là gì” đã chỉ ra điều đó. Ở Nhật Bản có thể lấy ví dụ như sự viết lại nội dung kênh chữ trong sách giáo khoa theo sự thay đổi của thể chế chính trị và sự không thống nhất trong kiến giải đối với các quốc gia ở xung quanh hiện nay. Trần Thuấn Thần đã từng nói rằng “Lịch sử được viết bởi kẻ chiến thắng”, đặc biệt do trong chính sử được viết sao cho có lợi cho kẻ chiến thắng vì thế những ghi chép lịch sử của kẻ bại trận hay các sách lưu hành bí mật, các ghi chép trong chính sử bao gồm sự phản tỉnh hay bất lợi cho kẻ thắng thường có độ tin cậy cao hơn.
Đăng bởi: THPT Trịnh Hoài Đức
Chuyên mục: Lớp 10, Lịch sử 10